ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH NGHỆ AN

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 481/QĐ-UBND

Nghệ An, ngày 25 tháng 02 năm 2022

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC BAN HÀNH ĐỀ ÁN “PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2021-2025”

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015;

Căn cứ Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;

Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025;

Căn cứ Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 13/01/2021 của UBND tỉnh Nghệ An về việc ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX;

Theo đề nghị của Giám đốc Sở Công Thương tại Tờ trình số 238/TTr ngày 10/02/2022.

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Đề án “Phát triển xuất khẩu tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2025”.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Giám đốc Sở Công Thương; Giám đốc các Sở, Thủ trưởng các ban, ngành cấp tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thị xã và Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 


Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- TT Tỉnh ủy; TT HĐND tỉnh;
- Chủ tịch UBND tỉnh
- Các PCT UBND tỉnh;
- Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh;
- Đài PT-TH Nghệ An, Báo Nghệ An;
- PCVP (KT) UBND tỉnh;
- Cổng TTĐT tỉnh;
- Lưu: VT, KT(TP,Q).

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Lê Hồng Vinh

 

ĐỀ ÁN

PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2021-2025
(Ban hành kèm theo Quyết định số 481/QĐ-UBND ngày 25/02/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh)

Phần 1

SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

I. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

- Nghị quyết số 36/2021/QH15 của Quốc Hội ngày 13/11/2021 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An.

- Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030.

- Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 25/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030.

- Quyết định số 1467/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015-2020, tầm nhìn 2030.

- Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2025.

- Quyết định 942/QĐ-TTg ngày 03/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030.

- Quyết định 1137/QĐ-TTg ngày 03/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

- Quyết định số 174/QĐ-TTg ngày 05/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản đến năm 2030.

- Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày 22/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2025.

- Quyết định số 531/QĐ-TTg ngày 01/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.

- Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 3098/QĐ-BCT ngày 24/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

- Quyết định 4288/QĐ-UBND ngày 11/11/2021 của UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt Đề án phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến 2030.

- Quyết định 3826/QĐ-UBND ngày 18/10/2021 của UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt Đề án Phát triển mở rộng diện tích cây ăn quả gắn với công nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021-2025.

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

1. Kết quả xuất khẩu giai đoạn 2016-2020

a) Quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch

Kế thừa những kết quả tích cực của giai đoạn 2011-2015, hoạt động xuất khẩu tỉnh Nghệ An giai đoạn 2016-2020 tiếp tục đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 853,3 triệu USD năm 2016 lên 1.510,3 triệu USD vào năm 2020, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 25,6%/năm, hoàn thành và vượt chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mà Đề án “Phát triển xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2016- 2020” đề ra. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa tăng từ 574,2 triệu USD năm 2016 lên 1.200,3 triệu USD năm 2020, đạt tốc độ 21%/năm. Xuất khẩu dịch vụ (bao gồm dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động) đến năm 2020 đạt 310 triệu USD[1].

So với giai đoạn 2011-2015, xuất khẩu giai đoạn 2016-2020 có tốc độ và giá trị cao hơn, cho thấy những tác động tích cực của hội nhập kinh tế đối với hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của tỉnh tăng từ gàn 220 USD/người năm 2011 lên 338,4 USD/người năm 2020, đóng góp quan trọng vào GRDP, ổn định kinh tế, xã hội cũng như giải quyết việc làm, tăng thu nhập và đóng góp vào ngân sách tỉnh.

b) Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu

Giai đoạn 2016-2020, hoạt động thu hút đầu tư tạo nguồn hàng xuất khẩu đạt kết quả khả quan. Nhiều dự án đầu tư có quy mô lớn với vốn đăng ký cao, tác động mạnh đến nền kinh tế của tỉnh như: Dự án Khu Công nghiệp (KCN) Đô thị Dịch vụ VSIP Nghệ An, Dự án KCN Hemaraj, Dự án Nhà máy chế biến sữa tươi sạch TH True milk, Dự án sản xuất gỗ ghép thanh và gỗ ván MDF, Dự án Hoa Sen Đông Hồi, Dự án xi măng Sông Lam, Nhà máy chế biến thực phẩm Royal Food, Dự án Luxshare,... được cấp phép và đi vào hoạt động, bước đầu tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa tập trung tạo nên nguồn hàng công nghiệp chế biến chế tạo của tỉnh. Bên cạnh đó, phát triển nông nghiệp có sự chuyển biến tích cực như sự chuyển dịch một số cây trồng có diện tích tập trung (chanh leo, dứa, sắn...) và phát triển công nghiệp chế biến thủy sản tạo nên nguồn hàng quan trọng phục vụ xuất khẩu.

Nhờ vậy, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng các mặt hàng công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu hàng thô và sơ chế. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến năm 2020 đạt mức cao 83,6% đã thể hiện rõ xu thế công nghiệp hóa của nền kinh tế.

Mặt hàng xuất khẩu phong phú, đa dạng, được phân thành 4 nhóm mặt hàng chính. Trong đó, hàng vật liệu xây dựng, dệt may và khoáng sản tăng cao so với dự kiến. Nhiều mặt hàng mới, không có trong kế hoạch xuất khẩu của giai đoạn 2016-2020 nhưng có sự tăng trưởng mạnh mẽ, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kim ngạch của tỉnh như: Hạt phụ gia nhựa, nguyên phụ liệu dệt may, da giày, máy móc thiết bị,... Đáng chú ý, mặt hàng vật liệu xây dựng đã vươn lên trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của tỉnh với kim ngạch đạt 399 triệu USD vào năm 2020. (Chi tiết tại Phụ lục 1 kèm theo).

Kết quả xuất khẩu các nhóm mặt hàng chủ yếu:

- Nhóm công nghiệp chế biến, chế tạo: Đây là nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của tỉnh (trung bình khoảng 75,6%), Giá trị xuất khẩu của nhóm mặt hàng này tăng từ 430,7 triệu USD năm 2016 lên 1.004,4 triệu USD năm 2020. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn đạt 24,7%/năm.

- Nhóm khoáng sản và nhiên liệu (gồm các sản phẩm chính như: đá các loại, bột đá siêu mịn; xăng dầu): Với tiềm năng khoáng sản sẵn có, công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội nhất là địa bàn một số huyện miền núi, góp phần giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, tăng thu cho ngân sách. Kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này tăng từ 69 triệu USD năm 2016 lên 92,2 triệu USD 2020, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 16,8%/năm. Đáng chú ý là tỷ lệ sản phẩm đá qua chế biến ngày càng chiếm tỷ lệ cao, khoảng 57,9% kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng này. Ấn Độ, Bangladesh và Trung Quốc là 3 thị trường chủ yếu của mặt hàng này.

- Nhóm nông lâm thủy sản (NLTS): Với lợi thế về đất đai rộng lớn và vùng nguyên liệu tập trung từ sản xuất nông nghiệp, Nghệ An có nhiều tiềm năng để phát triển ngành công nghiệp chế biến NLTS. Kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này tăng từ 69,7 triệu USD năm 2016 lên trên 100 triệu USD năm 2020. Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu như: chè, sắn, lạc, mía, cây ăn quả có múi,...

(Chi tiết có Phụ 01 kèm theo).

c) Thị trường xuất khẩu

Giai đoạn 2016 - 2020, thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh liên tục được mở rộng sang 150 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới nhờ khai thác và tận dụng hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Đến năm 2020, tỷ lệ khai thác, tận dụng FTA của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng, đạt 40-60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Trong đó, có 2 thị trường đạt kim ngạch trên 100,0 triệu USD là Trung Quốc và Hàn Quốc; 20 thị trường đạt kim ngạch trên 10,0 triệu USD; 39 thị trường đạt kim ngạch trên 1,0 triệu USD. (Chi tiết tại Phục lục 2.1, 2.2 và Phụ lục 3 kèm theo).

Cụ thể đối với một số nhóm thị trường:

- Thị trường ASEAN: Vận dụng hiệu quả lợi thế địa kinh tế và các Hiệp định thương mại tự do trong khu vực, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh sang khối thị trường này có sự tăng trưởng ổn định, từ 54,86 triệu USD năm 2016 lên 206,79 triệu USD năm 2020.

- Thị trường Châu Âu: Xuất khẩu sang thị trường Châu Âu giai đoạn 2016-2020 có sự tăng trưởng lớn cả về giá trị, tốc độ và tỷ trọng cơ cấu xuất khẩu của tỉnh nhờ vận dụng hiệu quả của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTAs). Kim ngạch xuất khẩu sản khối thị trường này chiếm 4,44% (25,47 triệu USD) lên 9,72% (116,63 triệu USD).

- Thị trường nói tiếng Trung Quốc vẫn là khu vực thị trường xuất khẩu chủ yếu của tỉnh với kim ngạch chiếm 43,19% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 16,9%/năm. Các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc kim ngạch xuất khẩu chiếm 20,15% với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,9%/năm.

- Thị trường Châu Mỹ có sự tăng trưởng mạnh mẽ về kim ngạch và chiếm tỷ lệ ngày càng tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Tỷ trọng xuất khẩu khối thị trường này tăng từ 2,49% (14,3 triệu USD) năm 2016 lên 12,5% (126,13 triệu USD), đạt tốc độ 72,3%/năm nhờ tác động mạnh mẽ từ việc thực hiện Hiệp định Thương mại (BTA) giữa Việt Nam - Hoa Kỳ với các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là linh kiện điện tử, dệt may.

d) Chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu

Giai đoạn 2016 - 2020, mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều yếu tố bất ổn tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trên cả nước nói chung và Nghệ An nói riêng, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vẫn tiếp tục được gia tăng về số lượng và hoạt động ngày càng hiệu quả, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhờ môi trường sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh ngày càng được cải thiện (Tăng từ 157 doanh nghiệp năm 2016 lên 276 doanh nghiệp năm 2020). (Chi tiết tại Phụ lục 4 kèm theo).

Tính chung cả giai đoạn, trên địa bàn tỉnh đã có 464 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu bao gồm 329 doanh nghiệp nội tỉnh và 135 doanh nghiệp ngoại tỉnh tham gia xuất khẩu hàng hóa của tỉnh Nghệ An. Năm 2020, số lượng doanh nghiệp vừa sản xuất vừa xuất khẩu chiếm tỷ lệ ~60% (khoảng 170 doanh nghiệp) trong tổng số doanh nghiệp của tỉnh, -70% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. số còn lại là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại đơn thuần, phụ thuộc nguồn hàng trong và ngoài nước, cụ thể:

- Nhóm doanh nghiệp địa phương: Kim ngạch chiếm tỷ trọng chủ yếu từ 50% - 66,4%/năm (từ 381,4 triệu USD năm 2016 lên 606,3 triệu USD năm 2020), tăng trưởng bình quân giai đoạn đạt 12,3%/năm.

- Nhóm doanh nghiệp FDI: Tăng về số lượng (từ 14 doanh nghiệp năm 2016 lên 24 doanh nghiệp vào năm 2020); Kim ngạch xuất khẩu tăng nhẹ trong cả giai đoạn 2016-2020 (Từ 187,5 triệu USD năm 2016 lên 206,7 triệu USD năm 2020)

- Nhóm doanh nghiệp ngoại tỉnh có xu hướng tham gia xuất khẩu hàng Nghệ An ngày càng tăng cả về số lượng doanh nghiệp, quy mô và tỷ trọng. Năm 2020 có 76 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đạt 387,2 triệu USD, chiếm 32,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn đạt 192,9%.

e) Đóng góp vào ngân sách tỉnh

Tổng thu ngân sách nhà nước từ lĩnh vực xuất, nhập khẩu giai đoạn 2016- 2020 là 7.103 tỷ đồng và có xu hướng tăng dần qua các năm: năm 2016: 1.118 tỷ đồng; năm 2017: 1.536 tỷ đồng; năm 2018: 1.570 tỷ đồng; năm 2019: 1.699 tỷ đồng; năm 2020: 1.178 tỷ đồng (Năm 2020 giảm do ảnh hưởng của dịch covid- 19.

Số thu chủ yếu từ thuế xuất khẩu các mặt hàng như khoáng sản, nhiên liệu, dăm gỗ,...; thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu máy móc, thiết bị tạo tài sản cố định của các dự án đầu tư trên địa bàn và thuế nhập khẩu dầu thô của Tổng kho xăng dầu DKC; thuế bảo vệ môi trường;…

2. Tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu trên địa bàn tỉnh

a) Về công tác chỉ đạo, điều hành

Giai đoạn 2016-2020, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các Đề án, Chương trình, Kế hoạch nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh: Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2016 - 2020 trên địa bàn tỉnh Nghệ An; Kế hoạch hành động của tỉnh thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2012 - 2020, định hướng đến năm 2030; Đề án Hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Nghệ An đến năm 2025; Kế hoạch số 255/KH-UBND ngày 26/4/2019 thực hiện Hiệp định Đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) của tỉnh Nghệ An; Kế hoạch số 511/KH-UBND ngày 09/9/2020 thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) trên địa bàn tỉnh Nghệ An;....

b) Tình hình thực hiện các nhiệm vụ cụ thể

- Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xuất nhập khẩu: Giai đoạn 2016 đến nay, đã tổ chức được trên 40 hội nghị tuyên truyền, tập huấn về xuất nhập khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế cho hơn 6000 lượt đại biểu là đại diện các Sở, ngành, UBND huyện thành phố, thị xã, UBND các xã, doanh nghiệp,người dân trên địa bàn tỉnh; biên soạn ấn phẩm “Nghệ An - Hội nhập, phát triển xuất khẩu”, xây dựng vận hành Chuyên trang Hội nhập kinh tế tỉnh Nghệ An (http://ngheanhoinhap.com),...

- Tích cực hỗ trợ doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin để kết nối, mở rộng thị trường; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư và xuất khẩu thông qua Chương trình xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại hàng năm.

- Quan tâm hoạt động hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu: Điều chỉnh trần lãi suất huy động theo hướng giảm dần, áp dụng những gói sản phẩm tín dụng cho các đối tượng ưu tiên với mức lãi suất cho vay 5 - 6%/năm. Triển khai chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn ngân hàng.

- Cải cách thủ tục hành chính:

Rà soát và bãi bỏ gần 40 thủ tục hành chính thuộc các lĩnh vực thuế, tài nguyên môi trường, tạo thuận lợi và đơn giản hóa thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh.

Thực hiện nhiệm vụ ủy quyền cấp Giấy chứng nhận xuất xứ của Cục Xuất Nhập Khẩu - Bộ Công Thương, Phòng Xuất nhập khẩu Khu vực Nghệ An (đóng tại Sở Công Thương) thực hiện cấp 16 loại giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ưu đãi trên hệ thống chứng nhận xuất xứ điện tử cấp độ 3 (Ecosys), cắt giảm 50% thời gian làm thủ tục so với quy định và được sự đánh giá cao của doanh nghiệp.

3. Hạn chế, nguyên nhân

a) Hạn chế

- Quy mô hàng hóa xuất khẩu vẫn còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu năm 2020 của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đứng ở vị trí thứ 35/63 tỉnh, thành phố của cả nước và đứng ở vị trí thứ 4 trong khu vực Bắc Trung bộ (sau Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế). Kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người đạt thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Năm 2020 đạt ~ 338,4 USD/người/năm (Trung bình cả nước ~ 2.891 USD/năm).

- Tỷ lệ hàng công nghiệp chế biến có giá trị lớn còn thấp. Toàn tỉnh mới chỉ có 03 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD bao gồm: Vật liệu xây dựng, Dệt may, Gỗ và sản phẩm gỗ. Tăng trưởng xuất khẩu chưa thực sự vững chắc, hàng hóa sử dụng tài nguyên thiên nhiên và sức lao động giản đơn vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Hàm lượng giá trị gia tăng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh như dệt may, linh kiện điện tử,... còn thấp.

- Thị phần xuất khẩu còn hạn hẹp, quan hệ bạn hàng thiếu ổn định, phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc.

- Chưa xuất hiện các doanh nghiệp xuất khẩu “đầu tàu”. Phần lớn doanh nghiệp còn thiếu kiến thức về hội nhập và kinh nghiệm kinh doanh thương mại quốc tế, chưa có chiến lược kinh doanh, xuất khẩu dài hạn; ít liên kết, hợp tác trong công việc, nhiều khi còn cạnh tranh nhau thiếu lành mạnh. Năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của hàng hóa và doanh nghiệp còn yếu.

- Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của tỉnh: Năm 2020 đạt 206,7 triệu USD, chỉ chiếm 17,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của tỉnh; trong khi đó trên địa bàn cả nước, kim ngạch của các doanh nghiệp FDI chiếm 72,3% tổng kim ngạch xuất khẩu.

- Dịch vụ logistics của tỉnh tuy đã có sự cải thiện về hạ tầng dịch vụ, loại hình dịch vụ, thành phần cũng như số lượng doanh nghiệp tham gia,... tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, nhiều “điểm nghẽn” dẫn đến việc tăng chi phí, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

- Thu từ hoạt động xuất khẩu còn khiêm tốn so với tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh do hầu hết các mặt hàng đều không phải chịu thuế xuất khẩu trừ một số mặt hàng như khoáng sản, dăm gỗ,...

- Hạn chế đối với một số mặt hàng cụ thể:

+ Hàng dệt may, da giày: Chủ yếu là hàng gia công xuất khẩu nên giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp hỗ trợ cho ngành như sản xuất nguyên phụ liệu, thiết bị, đào tạo nghề, thiết kế,... phát triển còn yếu. Chất lượng sản phẩm Sợi chưa đáp ứng được yêu cầu của các hãng thời trang cao cấp mà chủ yếu xuất khẩu cho sang thị trường các nước có yêu cầu trung bình và thấp như Trung Đông, Châu Phi.

+ Gỗ và sản phẩm gỗ: Quy mô nhà máy còn khá nhỏ lẻ. Sản phẩm tuy đa dạng nhưng xuất khẩu dăm gỗ vẫn là chủ yếu do số lượng và chất lượng các sản phẩm khác chưa đáp ứng yêu cầu của những thị trường có mức tiêu thụ lớn như EU, Hoa Kỳ, Canada,...

+ Khoáng sản và nhiên liệu: Quy trình khai thác chế biến khoáng sản còn nhiều hạn chế nhất là vấn đề khai thác xuất khẩu thô, hàm lượng chế biến thấp, trình độ công nghệ lạc hậu nên xảy ra tình trạng ô nhiễm, gây lãng phí tài nguyên.

+ Nông lâm thủy sản: Quy mô xuất khẩu còn rất khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế sản xuất và xuất khẩu của tỉnh. Trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm chủ yếu phục vụ các thị trường dễ tính với tiêu chuẩn chất lượng thấp (chè, lạc nhân, thủy sản đông lạnh....). Một số mặt hàng nông sản của tỉnh như Lạc, Chè, Tinh bột sắn, thủy sản... được xuất khẩu sang Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch, tiềm ẩn nhiều rủi ro khi có sự thay đổi của chính sách thương mại mậu biên của hai nước, rủi ro ùn ứ hàng hóa tại các cửa khẩu.... cũng như không khuyến khích được doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu.

b) Nguyên nhân

- Nguyên nhân khách quan:

+ Kinh tế thế giới vẫn đang trong giai đoạn khó khăn, kể cả các nước có nền kinh tế phát triển như EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ; thêm vào đó, tình hình bất ổn chính trị ở nhiều quốc gia, khu vực đã dẫn đến sức mua trên thị trường quốc tế giảm sút và tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu của Nghệ An.

+ Cùng với xu thế hội nhập, nhiều nước xây dựng rào cản kỹ thuật, thương mại như: Chống phá giá, tiêu chuẩn xã hội, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, chính sách bảo hộ hàng hóa, bảo vệ người tiêu dùng,... gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

+ Sự xuất hiện và bùng nổ của đại dịch Covid-19 vào cuối năm 2019, đầu năm 2020 tại Trung Quốc lan rộng ra toàn thế giới đã tác động rất lớn đến mọi mặt của kinh tế xã hội. Đặc biệt, vận tải hàng hóa quốc tế bị hạn chế, cước vận tải tăng cao,... làm đứt gãy chuỗi cung ứng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu.

+ Nguồn cung nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất của ngành chế biến nông lâm thủy hải sản còn hạn chế do nguồn cung trong tỉnh, trong nước thiếu hụt trong khi thủ tục nhập khẩu nguyên liệu còn nhiều khó khăn.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Nghệ An chưa có vùng trọng điểm sản xuất hàng hóa xuất khẩu với khối lượng lớn. Năng lực cạnh tranh trên địa bàn tỉnh vẫn còn hạn chế trên cả 3 cấp độ: tiềm lực kinh tế, doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu, thể hiện:

Nghệ An vẫn là một tỉnh còn nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp hơn bình quân chung cả nước. Chưa phải là vùng kinh tế trọng điểm được Trung ương đặc biệt quan tâm đầu tư, lại xa các cực phát triển kinh tế lớn của cả nước. Đầu tư hạ tầng phục vụ xuất khẩu (như cảng biển, cơ sở vật chất tại cửa khẩu, sân bay, đường giao thông, hệ thống điện, nước,...) nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong khi đây là vấn đề có tính quyết định trong việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào Nghệ An.

Trong nhiều năm qua, tỉnh Nghệ An chưa thu hút được các dự án FDI có quy mô lớn, tập trung sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và các ngành công nghiệp hỗ trợ cho xuất khẩu.

Các doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn tỉnh đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ: nguồn tài chính hạn hẹp, năng lực sản xuất và kinh doanh nhỏ bé, trình độ quản lý bất cập so với yêu cầu hội nhập. Kinh doanh theo thói quen, thiếu chiến lược lâu dài và thiếu tính chuyên nghiệp. Trình độ công nghệ, quản lý sản xuất vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực.

Sức cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản của Nghệ An còn yếu cả trên thị trường trong nước và nước ngoài. Trình độ sản xuất thấp, hoạt động sản xuất còn manh mún, thị trường thiếu tính ổn định, thiếu vốn đầu tư, chưa quan tâm đúng mức tới vệ sinh an toàn thực phẩm. Sự gắn kết sản xuất của người nông dân với khâu chế biến và tiêu thụ còn thấp, thiếu doanh nghiệp đầu tư và tham gia tổ chức sản xuất kinh doanh nông sản cùng hỗ trợ nông dân.

+ Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của công tác xuất khẩu đối với nền kinh tế của một số Sở, Ngành, địa phương, doanh nghiệp chưa đầy đủ, dẫn đến việc thực hiện các chương trình phát triển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chưa đạt hiệu quả cao.

+

- Tải về tài liệu PDF

- In tài liệu
Đang cập nhật

Viết đánh giá

     Nội dung không đầy đủ   Thông tin không chính xác   Khác 
Lưu ý: không hỗ trợ HTML!