ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 62/KH-UBND

Đắk Lắk, ngày 15 tháng 3 năm 2022

 

KẾ HOẠCH

PHÒNG, CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM NĂM 2022

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM NĂM 2021

I. TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM NĂM 2021

1. Tình hình dịch bệnh trên thế giới:

Hơn 10 năm qua, thế giới ghi nhận hàng loạt vụ dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi với số mắc và tử vong tăng cao, tập trung nhiều ở các nước châu Á và châu Phi. Đáng lo ngại là đến 75% bệnh truyền nhiễm mới nổi có nguồn gốc từ động vật. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện tại trên thế giới đã ghi nhận hơn 200 bệnh lây truyền từ động vật sang người và nguy cơ này sẽ tiếp tục tăng lên, đây là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Những năm gần đây, khu vực Tây Thái Bình Dương được coi là nơi dễ xảy ra dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi nguy hiểm như MERS-CoV, Ebola, cúm A/H7N9, cúm A/H5N1, cúm A/H5N6. Ngoài ra, sốt xuất huyết do vi-rút Ebola không còn là bệnh của khu vực châu Phi mà đã trở thành mối đe dọa toàn cầu. Trong đó phải kể đến đại dịch COVID-19, được ghi nhận ca bệnh đầu tiên tại Vũ Hán (Trung Quốc) vào ngày 29/12/2019, đến nay, sau gần 2 năm đại dịch COVID-19 đã lây lan đến 223 quốc gia, vùng lãnh thổ với trên 240 triệu ca mắc và 4,9 triệu ca tử vong. Dịch bệnh ngày càng nguy hiểm khi liên tục ghi nhận các biến thể mới như biến thể Alpha, Delta và biến thể Omicron. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), biến thể Delta và Omicron là mối đe dọa kép làm gia tăng số ca mắc, từ đó dẫn đến số ca nhập viện và tử vong tăng lên đột biến, tiếp tục gây áp lực lớn lên các nhân viên và hệ thống y tế.

2. Tại Việt Nam:

Việt Nam được coi là "điểm nóng" của các bệnh truyền nhiễm mới nổi bởi tập quán sống gần gia cầm, vật nuôi; chưa kể thói quen sinh hoạt, ăn uống (như: Ăn tiết canh động vật, ăn thịt gia cầm ốm, chết...) cũng là những nguy cơ tiềm ẩn làm gia tăng sự lây lan bệnh từ động vật sang người.

Tuy nhiên, các bệnh dịch lưu hành đang được khống chế, tỷ lệ mắc và tử vong của hầu hết các bệnh dịch truyền nhiễm lưu hành thấp hơn so với trung bình giai đoạn 05 năm qua, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, các bệnh truyền nhiễm có vắc-xin tiêm phòng có tỷ lệ mắc giảm mạnh do duy trì tỷ lệ tiêm chủng cao.

Tiếp tục giữ vững thành quả thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh. Một số bệnh truyền nhiễm lưu hành như bệnh tay chân miệng, sốt xuất huyết có số mắc gia tăng cục bộ tại một số địa phương vào các tháng cao điểm, bệnh sởi ghi nhận rải rác, tại một số tỉnh, thành phố, nhưng không thành ổ dịch tập trung đã được can thiệp giải quyết kịp thời, tránh được nguy cơ lan rộng và bùng phát thành dịch lớn.

Đối với dịch COVID-19: Từ đầu năm 2020 đến nay, cả nước đã trải qua 04 đợt bùng phát. Quy mô, địa bàn và mức độ lây lan mỗi đợt có xu hướng phức tạp hơn. Trong năm 2021, cả nước ghi nhận 1.729.792 ca mắc, trong đó 1.726.428 ca ghi nhận trong nước, 1.354.286 người khỏi bệnh và 32.133 ca tử vong. Đợt dịch thứ 4 từ ngày 27/4/2021 đến nay với đa nguồn lây, đa chủng, đa ổ bệnh và đã xâm nhập sâu trong cộng đồng, xuất hiện ở mọi lứa tuổi (bao gồm cả trẻ em ) tấn công vào các khu công nghiệp, nhà máy, cơ sở y tế, trường học, cơ quan hành chính, nhóm sinh hoạt tôn giáo... và tại các khu vực có mật độ dân cư cao làm số mắc tăng nhanh. Công tác phòng, chống dịch trong giai đoạn 2 (đợt dịch thứ 4 đến nay) theo hướng “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.

3. Tại tỉnh Đắk Lắk:

Những năm qua, tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều thành quả trong công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm như: Không có trường hợp mắc bệnh dịch hạch, góp phần cùng cả nước thanh toán bệnh bại liệt, một số bệnh truyền nhiễm đã được kiểm soát. Tuy nhiên, một số bệnh truyền nhiễm tại tỉnh vẫn đang diễn biến phức tạp như: Sốt rét, sốt xuất huyết Dengue, tay chân miệng, bạch hầu, sởi, bệnh dại...

Kết quả hoạt động phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2021, cụ thể như sau:

TT

Các chỉ tiêu kế hoạch năm 2020

Kế hoạch năm 2021

Kết quả thực hiện

Đánh giá

1.

Bệnh nhóm A, bệnh truyền nhiễm mới nổi, bệnh chưa rõ nguyên nhân (Cúm A(H5N1), A(H7N9), (H5N6)…)

100% ổ dịch được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lây lan cộng đồng

Không ghi nhận trường hợp mắc

Đạt

2.

Bệnh COVID-19

100% ca bệnh/ổ dịch được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lây lan cộng đồng

Ghi nhận 55.123 trường hợp mắc và có 133 trường hợp tử vong, nhiều ổ dịch ghi nhận ở cộng đồng

Không đạt

3.

Bệnh sốt xuất huyết Dengue:

- Tỷ lệ mắc:

- Tỷ lệ tử vong:

- Không để dịch lớn xảy ra

- <218,6/100.000 dân

- <0,01%

- Không xảy ra dịch lớn trong cộng đồng

- Mắc: 10/100.000

- Tử vong: 0.05%

- Đạt

- Đạt

- Không đạt

4.

Bệnh sốt rét:

- Tỷ lệ mắc:

- Tỷ lệ tử vong:

- Không để dịch lớn xảy ra

- <0,40/1.000 dân

- <0/100.000 dân

- Không xảy ra dịch lớn trong cộng đồng

- 0,01/1000 dân

- 0,00/100.000 dân

Đạt

5.

Bệnh Dại:

Khống chế dưới 05 trường hợp mắc và tử vong

Ghi nhận: 04 trường hợp mắc và tử vong

Đạt

6.

Bệnh tay chân miệng

- Tỷ lệ mắc:

- Tỷ lệ chết/mắc:

- Không để dịch lớn xảy ra

- <100/100.000 dân

- <0,02%

- Không xảy ra dịch lớn tại cộng đồng

- Mắc: 3,2/100.000

- Tử vong: 0.05%

-Đạt

- Đạt

- Không đạt

7.

Một số bệnh truyền nhiễm thuộc Chương trình Tiêm chủng mở rộng

Bại liệt, UVSS

Duy trì thành quả thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ UVSS, không có huyện nguy cơ cao về UVSS

100%

Đạt

Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em <1 tuổi

>95% quy mô xã/phường/ thị trấn

87,5%

Không đạt

Tỷ lệ tiêm vắc-xin đủ mũi cho phụ nữ có thai

>85% quy mô xã/phường/thị trấn

82,8%

Không đạt

Tỷ lệ mắc bệnh Sởi:

< 5/100.000 dân

0

Đạt

Tỷ lệ mắc bệnh ho gà:

< 1/100.000 dân

0

Đạt

Tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu:

<0.02/100.000 dân (không có ca bệnh)

0

Đạt

4. Khó khăn và tồn tại

- Tình hình dịch bệnh trên thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức tạp, do đó nguy cơ dịch bệnh xâm nhập và bùng phát luôn thường trực đặc biệt là các dịch bệnh mới nổi, tái nổi, bệnh chưa rõ nguyên nhân cùng với đó là sự biến chủng tác nhân gây bệnh có thể kể đến các bệnh dịch nguy hiểm như COVID-19, dịch bệnh cúm A(H7N9), MERS-CoV, sốt vàng da...

- Một số dịch bệnh nguy hiểm mới nổi xâm nhập như cúm A(H7N9), sốt vàng da, MERS-CoV,... đã được ngăn chặn trên cả nước, tuy nhiên vẫn chưa khống chế được triệt để và có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Các bệnh dịch chủ yếu do vi- rút (tay chân miệng, sốt xuất huyết Dengue...) không có thuốc điều trị đặc hiệu, một số bệnh chưa có vắc-xin dự phòng; các biện pháp phòng, chống dịch chủ yếu là các biện pháp không đặc hiệu; tuy đã được kiểm soát và có số mắc giảm nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ lây lan, bùng phát. Các bệnh truyền nhiễm đã được thanh toán, loại trừ tại Việt Nam như dịch hạch, bại liệt luôn có nguy cơ tái xâm nhập.

- Một số địa phương chưa có sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền các cấp đối với công tác phòng, chống dịch bệnh nói chung. Tuy đại dịch COVID-19 đã phần nào thay đổi cách nhìn của cả thế giới đối với công tác phòng, chống dịch, tuy nhiên đối với các dịch bệnh khác vẫn được xem là nhiệm vụ của ngành y tế, các ban, ngành, đoàn thể chưa tham gia tích cực vào công tác phòng, chống dịch bệnh.

- Nhận thức của người dân còn hạn chế, chưa tự giác tham gia các hoạt động phòng, chống dịch bệnh tại cộng đồng; bệnh dại còn ghi nhận nhiều trường hợp tử vong do người dân không chủ động, tự giác đi tiêm phòng vắc-xin dại;

người dân vẫn duy trì các thói quen, tập quán ăn uống không đảm bảo vệ sinh (ăn tiết canh sống gây bệnh liên cầu lợn)…

- Sự biến đổi khí hậu, biến động về dân cư, đô thị hóa, đặc biệt là thói quen vệ sinh cá nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm của một bộ phận lớn dân cư chưa được tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều dịch bệnh mới phát sinh, cũng như các dịch bệnh đã được khống chế hiện nay xuất hiện trở lại.

- Trong công tác tiêm chủng có nhiều vấn đề tồn tại như: Việc quản lý đối tượng tiêm chủng dịch vụ và tiêm chủng mở rộng khó khăn do không tách hoặc cập nhật được các đối tượng trong tiêm chủng mở rộng sử dụng vắc-xin tiêm chủng dịch vụ, không quản lý được hết các đối tượng vãng lai, di biến động. Tại một số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn chưa quản lý được hết các đối tượng, tỷ lệ tiêm chủng còn thấp ở quy mô cấp xã (vùng lõm tiêm chủng), hoạt động cung ứng vắc-xin từ các nhà sản xuất chưa đáp ứng kịp thời, chưa đảm bảo triển khai thực hiện theo kế hoạch.

- Kinh phí bố trí cho công tác phòng, chống dịch của tỉnh còn nhiều hạn chế, nhiều địa phương không bố trí hoặc bố trí chậm kinh phí cho công tác phòng, chống dịch bệnh.

II. DỰ BÁO TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH NĂM 2022

Dự báo trong năm 2022, tình hình dịch bệnh sẽ tiếp tục diễn biến vô cùng phức tạp, khả năng các bệnh truyền nhiễm mới phát sinh, bệnh truyền nhiễm nguy hiểm xâm nhập vào Việt Nam nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng là rất lớn trong quá trình giao lưu, tiếp xúc. Cùng với đó là nguy cơ gia tăng ở một số bệnh lưu hành thường xuyên như sốt xuất huyết, tay chân miệng, dại …

1. Dịch bệnh COVID-19: Tính đến ngày 13/3/2022, toàn tỉnh ghi nhận hơn 75.404 trường hợp mắc và 147 trường hợp tử vong. Số mắc được ghi nhận tại 15/15 huyện, thị xã, thành phố, ghi nhận ở mọi lứa tuổi, mọi thành phần dân tộc... Mặc dù, đã triển khai nhiều biện pháp phòng, chống dịch và tăng cường triển khai tiêm chủng toàn dân, tuy nhiên trong bối cảnh mở cửa trở lại và tiến tới xem COVID-19 như một bệnh đặc hữu, số mắc trong thời gian tới sẽ tiếp tục tăng cao, cùng với đó là sự gia tăng tỷ lệ bệnh nhân chuyển nặng và tử vong dự báo sẽ gây sức ép rất lớn lên hệ thống cơ sở điều trị của tỉnh.

2. Bệnh Cúm A (H5N1): Năm 2021 không phát hiện ổ dịch cúm A(H5N1) trên gia cầm. Tuy nhiên, tỉnh Đắk Lắk là địa phương có tổng đàn gia cầm lớn và việc kiểm soát, vận chuyển, giết mổ gia cầm còn nhiều tồn tại, bất cập do đó trong năm 2022 nguy cơ dịch bệnh có thể xảy ra diễn biến phức tạp.

3. Bệnh tay chân miệng: Trong năm 2021, bệnh được ghi nhận tại 15/15 huyện, thị xã, thành phố với 605 trường hợp mắc, giảm 50% so với cùng kỳ năm 2020, có 01 trường hợp tử vong. Vì đây là bệnh lưu hành trên diện rộng, các biện pháp phòng chống không đặc hiệu, hiệu quả không cao. Việc cách ly tại bệnh viện còn hạn chế, cách ly tại cộng đồng khó thực hiện, việc nâng cao ý thức về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm còn khó khăn. Dự báo trong năm 2022 dịch bệnh có thể bùng phát và diễn biến phức tạp.

4. Bệnh sốt xuất huyết Dengue: Là bệnh lưu hành hàng năm của tỉnh, trong năm 2021 toàn tỉnh ghi nhận 1.873 ca tăng 35% so với năm 2020, ghi nhận 01 trường hợp tử vong. Với thói quen tích trữ nước dài ngày của người dân là điều kiện thuận lợi để muỗi sinh sản, công tác vệ sinh môi trường còn nhiều tồn tại, bất cập, ý thức tự bảo vệ của người dân chưa cao, còn trông chờ nhiều vào việc xử lý ca bệnh/ổ dịch bằng hóa chất mà không quan tâm loại trừ ổ chứa lăng quăng, bọ gậy tại nhà. Ngoài ra, theo dự báo của thế giới do sự biến đổi của khí hậu, thời tiết nắng nóng liên tục kéo dài xen lẫn các đợt mưa, tốc độ đô thị hóa nhanh, nhiều công trình xây dựng, đất bỏ hoang, các khu nhà trọ, lán trại, nghĩa trang... chưa được quan tâm xử lý vấn đề vệ sinh, là điều kiện thuận lợi cho muỗi truyền bệnh và lăng quăng phát triển, cũng là cảnh báo sự bùng phát, khó kiểm soát của dịch sốt xuất huyết Dengue; đồng thời, năm 2022 là chu kỳ đỉnh dịch của tỉnh, do đó, dự báo dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue có nguy cơ bùng phát mạnh với nhiều diễn biến phức tạp.

5. Bệnh uốn ván sơ sinh: Tập quán sinh đẻ tại nhà của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại, việc hưởng ứng của người dân đối với công tác tiêm chủng mở rộng còn nhiều hạn chế đặc biệt là tỷ lệ tiêm chủng giảm trong thời gian đại dịch COVID-19 bùng phát có thể là nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh trong thời gian tới.

6. Bệnh dại: Trong năm 2021, ghi nhận 04 trường hợp mắc và tử vong tại huyện Cư M’Gar (01), Buôn Ma Thuột (01), Ea H’Leo (02). Giảm 03 trường hợp so với năm 2020 (07 trường hợp). Thực trạng nuôi chó trông nhà/nương rẫy, chó thả rông, không đeo rọ mõm vẫn còn phổ biến. Người dân vẫn chưa chủ động tiêm phòng cho vật nuôi. Bệnh dại không có biểu hiện bệnh ngay lập tức nên người dân chủ quan, không đi tiêm phòng sau khi bị chó, mèo cắn. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn, giá thành vắc-xin còn cao, cần phải tiêm nhiều liều. Dự báo, vẫn tiếp tục ghi nhận một số trường hợp mắc và tử vong do bệnh dại trong năm 2022.

7. Bệnh viêm não Nhật Bản B: Trong năm 2021, không ghi nhận trường hợp mắc. Tuy nhiên, đây là bệnh truyền nhiễm thường hay gặp ở trẻ em, bệnh xảy ra ở những địa phương có tỉ lệ tiêm chủng thấp, người dân chưa hưởng ứng tốt công tác tiêm chủng mở rộng và là bệnh lây truyền từ muỗi nếu không có các biện pháp phòng, chống đặc hiệu, do đó bệnh có nguy cơ xảy ra cao trong năm 2022.

8. Bệnh sởi: Trong năm 2021, toàn tỉnh không ghi nhận trường hợp sởi, số mắc giảm 100% so với cùng kỳ năm 2020. Tuy nhiên, bệnh sởi gia tăng với số mắc cao tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ (ở các các quốc gia đã công bố loại trừ bệnh Sởi như: Australia, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore). Vì vậy, theo nhận định của các chuyên gia y tế, dự báo dịch sởi có thể gia tăng trong năm 2022 và những năm tiếp theo.

9. Bệnh bạch hầu: Trong những năm gần đây, bệnh bạch hầu đang có nguy cơ quay trở lại, bùng phát thành dịch lớn. Tại tỉnh Đắk Lắk, năm 2020 toàn tỉnh ghi nhận 50 trường hợp mắc tại 6/15 huyện, thành phố, không có trường hợp tử vong. Trong năm 2021, không ghi nhận ca mắc bệnh bạch hầu trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, trong năm 2022 nguy cơ xảy ra dịch bệnh bạch hầu trên địa bàn là rất cao.

10. Bệnh sốt rét:

- Năm 2021, toàn tỉnh phát hiện 12 trường hợp bệnh nhân sốt rét (BNSR), hiện tại tình hình sốt rét ổn định, BNSR các đơn vị đều giảm nhiều so với cùng kỳ năm 2020.

- Mặc dù bệnh sốt rét giảm đáng kể, tuy nhiên trong năm 2022 vẫn còn nhiều tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh tăng trở lại do:

+ Tình hình di biến động dân cư: Khó quản lý, người dân đi đến các vùng sốt rét lưu hành mắc sốt rét trở về địa phương, đi rừng, ngủ rẫy...; Nhiều trường hợp BNSR ở đối tượng này chưa quản lý được;

+ Tình hình sốt rét kháng thuốc có nguy cơ lan rộng;

+ Người có nguy cơ mắc sốt rét chưa có biện pháp bảo vệ cá nhân tốt: Đi rừng, ngủ rẫy chưa mang màn hoặc võng màn tẩm hóa chất theo để phòng chống muỗi đốt...;

+ Sự phục hồi của véc-tơ truyền bệnh: Điều tra có véc tơ chính tại vùng sốt rét lưu hành nhẹ mà trước đây không có (một số điều kiện thuận lợi cho véc-tơ phát triển như Vườn Quốc gia Yok Đôn, Khu bảo tồn Ea Sô...).

11. Bệnh liên cầu lợn: Trong năm 2021 không ghi nhận trường hợp mắc (Tuy nhiên năm 2019 ghi nhận 01 trường hợp bệnh), dự báo năm 2022 vẫn có khả năng ghi nhận các trường hợp bệnh.

12. Một số bệnh truyền nhiễm gây dịch khác:

Cúm A(H5N6), cúm A(H7N9) không ghi nhận ca bệnh. Tuy nhiên, do điều kiện giao lưu, tiếp xúc với nhiều tỉnh thành trong cả nước, là tỉnh biên giới tiếp giáp với Campuchia nên nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm liên quan là rất cao.

Bệnh Chikungunya là bệnh truyền nhiễm lây truyền qua muỗi Aedes. Hiện không có thuốc chủng ngừa hoặc thuốc để điều trị nhiễm vi-rút Chikungunya. Phòng tránh muỗi đốt, diệt lăng quăng, diệt muỗi là các biện pháp phòng ngừa chủ động, hiệu quả, cần duy trì thường xuyên và liên tục. Năm 2020, bệnh lan rộng trên địa bàn Vương quốc Campuchia, tỉnh ta có đường biên giới với Campuchia nên nguy cơ bệnh xâm nhập là rất cao nếu không có các biện pháp phòng, chống hiệu quả, kịp thời.

Các bệnh khác: Bệnh cúm mùa, bệnh đường tiêu hóa, thủy đậu, quai bị ... đang có xu hướng gia tăng.

Phần thứ hai

KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG NĂM 2022

I. MỤC TIÊU CHUNG

Giảm 5-10% tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh truyền nhiễm so với trung bình giai đoạn 2016-2020. Khống chế kịp thời, không để dịch bệnh bùng phát, góp phần bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và phát triên kinh tế, xã hội.

II. MỤC TIÊU CỤ THỂ

1. Giám sát chặt chẽ, phát hiện sớm, cách ly, khoanh vùng và xử lý triệt để các ổ dịch, giảm số mắc và tử vong các bệnh truyền nhiễm, ngăn chặn kịp thời bệnh dịch truyền nhiễm nguy hiểm không để xâm nhập vào tỉnh.

2. Tiếp tục tăng cường hoạt động phòng, chống dịch COVID-19, tăng cường giám sát, phát hiện sớm, khoanh vùng, cách ly, xử lý ổ dịch kịp thời, đẩy mạnh công tác tiêm chủng vắc-xin ngừa COVID-19 toàn dân.

3. Bảo đảm công tác phân tuyến điều trị, giảm quá tải bệnh viện tuyến cuối; thu dung, cấp cứu, điều trị kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp biến chứng và tử vong.

4. Tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của người dân về công tác phòng, chống dịch bệnh.

5. Bảo đảm hiệu quả hoạt động phối hợp liên ngành triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, kiểm tra, giám sát các hoạt động tại địa phương.

6. Tăng cường hợp tác liên ngành và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm dịch y tế và vai trò của cơ quan đầu mối thực hiện Điều lệ quốc tế tại Việt Nam.

7. Tăng cường năng lực, đảm bảo kinh phí, trang bị đầy đủ các phương tiện, trang thiết bị y tế và vật tư y tế cho hệ thống y tế dự phòng các cấp theo tiêu chuẩn để đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của hệ thống.

III. CHỈ TIÊU CHUYÊN MÔN

TT

Nội dung

Chỉ tiêu năm 2022

1.

Bệnh nhóm A, bệnh truyền nhiễm mới nổi, bệnh chưa rõ nguyên nhân: (cúm A(H5N1), cúm A(H7N9), cúm A(H5N6),…)

100% ổ dịch được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lây lan cộng đồng

2.

Bệnh COVID -19

- Đẩy nhanh tiến độ tiêm vắc-xin phòng COVID-19.

- Bảo vệ các nhóm đối tượng nguy cơ.

- Khống chế giảm số ca mắc mới và tử vong, không để dịch lây lan trong cộng đồng.

3.

Bệnh sốt xuất huyết Dengue:

- Tỷ lệ mắc:

- Tỷ lệ tử vong:

- Không để dịch lớn xảy ra

- <218,6/100.000 dân

- <0,01%

4.

Bệnh sốt rét:

- Tỷ lệ mắc:

- Tỷ lệ tử vong:

- Không để dịch lớn xảy ra

- <0,30/1.000 dân

- <0/100.000 dân

5.

Bệnh Dại:

Khống chế dưới 05 trường hợp mắc và tử vong

6.

Bệnh tay chân miệng

- Tỷ lệ mắc:

- Tỷ lệ chết/mắc:

- Không để dịch lớn xảy ra

- <100/100.000 dân

- <0,02%

7.

Một số bệnh truyền nhiễm thuộc Chương trình Tiêm chủng mở rộng

- Bại liệt, UVSS

Duy trì thành quả thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ UVSS, không có huyện nguy cơ cao về UVSS

- Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em <1 tuổi

>95% quy mô xã/phường/thị trấn

- Tỷ lệ tiêm vắc-xin đủ mũi cho phụ nữ có thai

>85% quy mô xã/phường/thị trấn

- Tỷ lệ mắc bệnh Sởi

< 5/100.000 dân

- Tỷ lệ mắc bệnh Ho gà

< 1/100.000 dân

- Tỷ lệ mắc bệnh Bạch hầu:

< 0.02/100.000 dân

IV. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

1. Công tác tổ chức quản lý, chỉ đạo: Sở Y tế - cơ quan thường trực công tác phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm của tỉnh tham mưu Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch của tỉnh; đồng thời, chủ động thực hiện có hiệu quả việc quản lý, chỉ đạo công tác phòng, chống dịch trên địa bàn tỉnh, cụ thể:

- Thực hiện nghiêm túc và quyết liệt các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia, các Bộ, ngành Trung ương trong phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là dịch bệnh COVID-19; tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả mục tiêu ngăn chặn nguồn lây nhiễm xâm nhập bên ngoài và khoanh vùng, phát hiện sớm, cách ly, dập dịch từ bên trong.

- Theo dõi sát tình hình dịch bệnh thế giới, trong nước và mô hình bệnh tật tại địa phương để dự báo tình hình dịch bệnh và xây dựng kế hoạch ứng phó với các cấp độ của dịch bệnh, đặc biệt với các dịch bệnh nguy hiểm nhằm chủ động ứng phó trong các tình huống khác nhau có hiệu quả nhất và giảm tối đa tác động và thiệt hại do dịch bệnh.

- Nâng cao năng lực của hệ thống phòng, chống dịch tại các tuyến trên địa bàn để đáp ứng với yêu cầu

- Tải về tài liệu PDF

- In tài liệu
Đang cập nhật

Viết đánh giá

     Nội dung không đầy đủ   Thông tin không chính xác   Khác 
Lưu ý: không hỗ trợ HTML!