location_on Số 24/2B Đường Võ Oanh, P. 25, Q. Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh
phone 0862.000.639
Quyết định 196/QĐ-UBND phê duyệt bổ sung dữ liệu Đề án “Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” năm 2022
Quyết định 196/QĐ-UBND phê duyệt bổ sung dữ liệu Đề án “Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” năm 2022
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;
Căn cứ Quyết định số 05/2006/QĐ-BXD ngày 08/3/2006 của Bộ Xây dựng ban hành Quy chế đánh số và gắn biển số nhà;
Căn cứ Kết luận số 35-KL/TU ngày 24/10/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Đề án “Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”;
Căn cứ Nghị quyết số 41/2016/NQ-HĐND18 ngày 08/12/2016 của HĐND tỉnh về việc ban hành Quy định đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh;
Căn cứ Quyết định số 45/2016/QĐ-UBND ngày 21/12/2016 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy định đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh;
Căn cứ Quyết định số 91/QĐ-UBND ngày 03/3/2017 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Đề án “Ngân hàng dữ liệu tên đường, tên phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tại Tờ trình số 352/TTr-SVHTTDL ngày 31/3/2022.
Thủ trưởng các cơ quan: Văn phòng UBND tỉnh, các Sở: Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Kế hoạch và Đầu tư; Tài chính; Giao thông Vận tải; Xây dựng; Tài nguyên và Môi trường; UBND các huyện, thành phố và các cơ quan, đơn vị có liên quan căn cứ Quyết định thi hành./.
Nơi nhận: - Như Điều 3; - Bộ VHTTDL (b/c); - TTTU, TTHĐND tỉnh (b/c); - Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh; - VP UBND tỉnh: PCVPVX, CVP - Lưu: VT, KGVX.
Ông Ngô Trọng Tố, sinh năm 1823 (Quý Mùi), mất ngày 14/9/1905 (tức 16/8 năm Ất Tỵ), hiệu Trực Hiên tiên sinh, thụy Trang Lượng. Ông đỗ Cử nhân năm Thiệu Trị thứ 3 năm Quý Mão (1843). Ông là bậc nho nhã có tiếng, trọng thần của triều đình, làm quan thanh liêm, thương dân; trải qua các chức vụ từ ở quận huyện đến quan trong triều và về hưu năm 1893. Trong thời gian làm việc, Ông đã được tặng nhiều văn bằng, sắc, chỉ, trong đó có 3 bản "Sắc phong" của các triều vua: Tự Đức thứ 32 (1879); Đồng Khánh thứ 2 (1887); Thành Thái thứ 5 (1893) phong tặng. Ông làm Tuần Phủ, Tổng Đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang).Hiện nay các đạo sắc phong được lưu giữ tại Nhà thờ Họ Ngô, phường Đáp cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
2. Ngô Thế Loan
Ngô Thế Loan, sinh ngày 10/8/1898 tại Đáp Cầu, Bắc Ninh; Ông mất ngày 29/8/1979 tại Hà Nội. Năm 1930-1934, Ông được bầu làm Nghị viên và được Viện Dân biểu Bắc kỳ cử làm Thành viên dự khuyết tại Hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương. Trong Cách mạng Tháng Tám, Ông tham gia giành chính quyền ở Đáp Cầu và Bắc Ninh. Đầu năm 1946, ông được bầu vào Hội đồng Nhân dân tỉnh Bắc Ninh và được Hội đồng Nhân dân bầu làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Bắc Ninh (12/1946-10/1947).
3. Ngô Thế Phúc Ngô Thế Phúc sinh ngày 01/7/1906, mất tháng 10/1995 tại phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Ông được bầu làm Chủ tịch Hội truyền bá Quốc ngữ Bắc Ninh và Chủ tịch hội cứu tế Bắc Ninh, đây là các tổ chức hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ông là một nhà hoạt động xã hội nhiệt thành, sớm giác ngộ và đi theo cách mạng. Trong Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên (06/1/1946) của nước Việt Nam độc lập, ông Ngô Thế Phúc được bầu là Đại biểu Quốc hội khóa 1, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam; làm ở Ban sửa đổi Hiến pháp năm 1956 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban; được cử làm Chủ tịch Tuần lễ vàng Bắc Ninh. Trong kháng chiến chống Pháp ông được cử làm Cố vấn kinh tế và trực tiếp tham gia công tác ở Sở Kinh tế liên khu Việt Bắc, tham gia Ủy viên ban Mặt trận Liên Việt Liên Khu Việt Bắc.
Ông được Chính phủ tặng thưởng Huân chương kháng chiến (thời chống Pháp) và Huy chương chống Mỹ cứu nước hạng nhất.
Là vị vua thứ tám của triều Lý. Lý Huệ Tông (huý Hạo Sảm), con trưởng của Lý Cao Tông, mẹ là Hoàng hậu họ Đàm, sinh vào tháng 7 năm Giáp Dần (1194). Năm Mậu Thìn (1208) sắc lập làm Hoàng Thái Tử. Khi Lý Cao Tông qua đời, ông lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Gia.
Lý Huệ Tông làm vua ở ngôi 14 năm (1210-1224). Lý Huệ Tông qua đời ngày 20 tháng 12 năm Bính Tuất (1226), thọ 33 tuổi (1194-1226), táng ở Thọ Lăng Thiên Đức hương Cổ Pháp quê nhà. Nhân dân và triều đình thờ người ở Đền Đô.
Lý Huệ Tông không có con trai. Năm 1224, truyền ngôi cho con gái là công chúa Phật Kim, tức Lý Chiêu Hoàng, rồi xuất ra ở chùa Chân Giáo, xưng là Huệ Quang đại sư.
2.
Văn Chỉ
Văn Chỉ là tên địa danh, xưa kia trên khu đất này làng Trang Liệt đã xây dựng Văn Chỉ để thờ những người đỗ đạt cao của địa phương. Làng Trang Liệt xưa có tên nôm là Sặt Đồng; trước năm 1945, là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; đến năm 1948 sáp nhập với xã Bính Hạ thành xã Trang Hạ. Làng Trang Liệt có chợ, họp vào các buổi sáng. Trang Liệt là một làng khoa bảng, trước năm 1945, làng có 8 vị đỗ Tiến sỹ.
Nay địa danh Trang Liệt, thuộc phường Trang Hạ, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
3.
Tây Nội
Tây Nội là tên xóm, thuộc khu phố Phù Lộc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc có 4 xóm: Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Phù Lộc là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2 năm 2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
4.
Đông Miếu
Miếu là tên xóm, thuộc khu phố Phù Lộc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc có 4 xóm: Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Phù Lộc là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2 năm 2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
5.
Nam Miếu
Miếu là tên xóm, thuộc khu phố Phù Lộc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc có 4 xóm: Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Phù Lộc là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2 năm 2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
6.
Giang Long
Giang Long là tên sông, thuộc xóm Dưa Sông, khu phố Phù Lộc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một tên dòng sông cổ, ngày xưa thường gọi là Giang Long do dòng sông chạy giữa xóm Dưa Sông, ngày nay dòng sông bị thu hẹp lại và đã làm ngầm hoá dòng sông. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
7.
Đồng Cả
Đồng Cả là tên xóm, tên cổ xưa còn gọi là Cổng Đồng, sau cách mạng tháng tám năm 1945 đổi tên là Đồng Cả thuộc khu phố Phù Lộc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc có 4 xóm: Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Phù Lộc là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
8.
Sóc Cả
Sóc Cả là tên xóm, thuộc khu phố Doi Dóc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Doi Sóc có 3 xóm: Doi Sóc, Sóc Cả và Sóc Tá; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Doi Sóc là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
9.
Sóc Tá
Sóc Tá là tên xóm, thuộc khu phố Doi Dóc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Doi Sóc có 3 xóm: Doi Sóc, Sóc Cả và Sóc Tá; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Doi Sóc là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
10.
Gạo Trên
Gạo Trên là tên xóm, thuộc khu phố Rích Gạo, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Rích Gạo xưa kia có 2 xóm: Gạo Trên và Gạo Dưới; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Rích Gạo là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
11.
Rích Gạo
Rích Gạo là tên khu phố, xưa còn có tên nôm là làng Cháy, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Trước năm 1945, Rích Gạo là đơn vị xã, thuộc tổng Phù Chẩn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
12.
Chúc
Chúc là tên xóm, thuộc khu phố Dương Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Dương Sơn có 3 xóm: Chúc, Chi, Tự; Trước năm 1945, Dương Sơn là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, là xã Dương Sơn; Từ năm 1949 đến năm 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 đến năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
13.
Chi
Chi là tên xóm, thuộc khu phố Dương Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Dương Sơn có 3 xóm: Chúc, Chi, Tự; Trước năm 1945, Dương Sơn là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, là xã Dương Sơn; Từ năm 1949 đến năm 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 đến năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
14.
Tự
Tự là tên xóm, thuộc khu phố Dương Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Dương Sơn có 3 xóm: Chúc, Chi, Tự; Trước năm 1945, Dương Sơn là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, là xã Dương Sơn; Từ năm 1949 đến năm 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 đến năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
15.
Ngô Sách Thí (1632 -?)
Tự là Đỗ Thi, Thụy Trung Túc, sinh năm Nhâm Thân, người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, nay là khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn. Nguyên quán xã Nghĩa Lập, nay là khu phố Nghĩa Lập, phường Phù Khê, thành phố Từ Sơn. Ông là cha của Tiến sĩ Ngô Sách Dụ, Ngô Sách Tuân, ông nội Tiến sĩ Ngô Sách Tố. cháu nội Nguyễn Gia Mưu (đổi sang họ Ngô). Năm 28 tuổi đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659) đời vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Án sát.
16.
Núi
Núi là tên xóm, thuộc khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
17.
Trước
Trước là tên xóm, thuộc khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
18.
Ô
Ô là tên xóm, thuộc khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
19.
Xanh
Xanh là tên xóm, thuộc khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
20.
Tây
Tây là tên xóm, thuộc khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
21.
Đông
Đông là tên xóm, thuộc khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
22.
Dinh
Tam Sơn là đất ngàn năm văn vật, mảnh đất có đủ tam khôi: Trạng Nguyên Bảng Nhãn, Thám Hoa. Trong lịch sử làng Tam Sơn, cụ Ngô Sách Tố đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Tam danh (Thám Hoa) khoa Tân Sửu niên hiệu Bảo Thái 2 (1721) đời vua Lê Dụ Tông. Sau khi đỗ đạt và làm quan cụ được phong đất và xây dựng khu Dinh và luyện quân tại khu vực này, Sau này nhân dân gọi khu đất ấy là khu Dinh. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
23.
Dọc Xanh
Dọc Xanh là tên địa danh xứ đồng, trước đây là xứ đồng Dọc Xanh thuộc khu ruộng canh tác của xóm Ô và xóm Xanh.
Dọc Xanh là tên khu dân cư, thuộc khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 2001 nhà nước chuyển đổi khu xứ đồng Dọc Xanh thành khu dân cư mới và nhân dân địa phương đã lấy tên gọi Dọc Xanh để đặt tên khu dân cư mới này. Đây là tên gọi đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
24.
Cầu Cháy
Cầu Cháy là tên xứ đồng, thuộc khu phố Mai Động, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Theo nhân dân địa phương trên trục đường tuyến phố đi qua xưa là xứ đồng Cầu Cháy, khu vực này trước đây nhân dân địa phương có dựng một nhà Cầu giữa đồng để nhân dân địa phương tránh mưa năng và nghỉ ngơi khi lao động mệt nhọc. Nhà Cầu được dựng cột đá, trên là khung gỗ và lợp ngói. Thời kỳ chống Pháp xâm lược giặc Pháp đã đốt và phá nhà Cầu này và cánh đồng lúa này đã được nhân dân đặt tên là xứ đồng Cầu Cháy. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
25.
Giếng
Giếng là tên xóm, thuộc khu phố Mai Động, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Mai Động còn gọi làng Mai Động, có tên nôm là Đồng Mỗi, hay làng Moi có 12 xóm là: Cầu Ngoài, Ngõ Giỏ, Sau Đồng, Đông Tiến, Chùa, Ngõ Chùa, Ngõ Đình, Ngõ Đãi, Giếng, Giữa và Ngõ Làng. Trước năm 1945, là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Nghĩa Lập, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Mai Động; Từ năm 1949 đến năm 1970, thuộc xã Minh Đức; Từ năm 1970 đến năm 2021 thuộc xã Hương Mạc, từ năm 2021 đến nay là phường Hương Mạc.
Địa danh này gắn với tên Giếng cổ, hiện nay Giếng cổ này vẫn còn, nước giếng rất trong, ngày xưa giếng này là nước ăn sinh hoạt cho cả làng. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.