CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 18 tháng 02 năm 2025; Căn cứ Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Căn cứ Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24 tháng 11 năm 2023 của Ban Chấp hành Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Căn cứ Kết luận số 127-KL/TW ngày 28 tháng 02 năm 2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an. QUYẾT NGHỊ: Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
PHÒNG NGỪA, ỨNG PHÓ VỚI CÁC ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045 Những năm gần đây, các đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, tác động trên quy mô lớn, uy hiếp sự ổn định, phát triển mọi mặt đời sống của cộng đồng dân cư, quốc gia, khu vực và toàn cầu. Các đe dọa này có thể xuất hiện từ tự nhiên, với các biểu hiện của biến đổi khí hậu, như nhiệt độ trái đất tăng nhanh khiến băng tan, nước biển dâng, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ lụt, sóng thần, động đất, hạn hán, giá rét kéo dài... làm mất đa dạng sinh học, phá hủy hệ sinh thái, ảnh hưởng đến các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; dịch bệnh truyền nhiễm xuất hiện thường xuyên hơn, tốc độ lan truyền nhanh, tính chất phức tạp, hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Những đe dọa an ninh phi truyền thống do hoạt động tiêu cực của con người, nổi lên là khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, như tội phạm về ma túy, mua bán người; đặc biệt là tội phạm sử dụng công nghệ cao, không gian mạng, lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để gia tăng các hành vi phạm tội với phương thức, thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, phức tạp. Hầu hết các đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, xét cả về nguyên nhân và hậu quả, vượt qua khả năng ứng phó của một quốc gia. Tại Việt Nam, các đe dọa an ninh phi truyền thống diễn biến ngày càng phức tạp, tác động mạnh, trên phạm vi rộng, ảnh hưởng bất lợi đối với mọi mặt đời sống xã hội. Sự phát triển của khoa học, công nghệ bên cạnh những thuận lợi là cơ bản cũng đang làm nảy sinh nhiều nguy cơ, thách thức mới đối với an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Tội phạm lợi dụng không gian mạng tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, gia tăng cả về số vụ, tính chất, mức độ, hậu quả. Bên cạnh đó, Việt Nam nằm trong nhóm nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của các đe dọa an ninh phi truyền thống từ tự nhiên, như bão, lụt, hạn hán, xâm nhập mặn... Việt Nam là quốc gia ven Biển Đông, nơi tập trung 1/3 lưu lượng vận tải đường biển quốc tế, nhưng cũng là khu vực tồn tại nhiều tranh chấp, xung đột, cướp biển, thiên tai nên phải đối mặt với các đe dọa từ an ninh hàng hải gia tăng. An ninh nguồn nước bị đe dọa ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là nguồn nước sông Mê Kông, sông Hồng. Mặt khác, nhu cầu năng lượng tăng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặt ra những thách thức ngày càng lớn về bảo đảm an ninh năng lượng. Tình trạng ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí ngày càng nghiêm trọng; nguy cơ cạn kiệt một số tài nguyên cũng đang hiện hữu... Ngoài ra, cơ cấu dân số đông, xu hướng già hóa, cùng những rủi ro về thiên tai, dịch bệnh gia tăng đặt ra nhiều yêu cầu đối với bảo đảm an ninh lương thực, an ninh dân số, an ninh kinh tế, an ninh xã hội, an ninh con người. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, địa phương về phòng ngừa, ứng phó các đe dọa an ninh phi truyền thống chưa đồng bộ, chặt chẽ; hợp tác quốc tế chưa thật hiệu quả. Đặc biệt, chưa có cơ chế thống nhất để điều phối, huy động lực lượng, phương tiện phục vụ phòng ngừa, ứng phó, dẫn đến phân tán nguồn lực, thậm chí cản trở quá trình giải quyết, quản trị. Do đó, cần thiết ban hành Chiến lược tổng thể quốc gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Chiến lược) để chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đây cũng là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng trong kỷ nguyên phát triển phồn vinh, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam. 1. Phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống là trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực trong nước và quốc tế, trong đó người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội; phân công trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng, rành mạch, gắn với phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho địa phương. 2. Quán triệt, thể chế đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng, triển khai đồng bộ chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Tác động từ các đe dọa an ninh phi truyền thống phải được đánh giá, nhận diện đầy đủ, khách quan, hạn chế thấp nhất rủi ro, đe dọa đến lợi ích, an ninh quốc gia; đặt lợi ích quốc gia - dân tộc, an ninh, an toàn của người dân lên trên hết, trước hết. Phòng ngừa, ứng phó các đe dọa này phải đặt trong mối quan hệ gắn bó với các vấn đề an ninh truyền thống, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; gắn liền với mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững; phù hợp với Chiến lược, Quy hoạch tổng thể quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội. 3. Luôn nêu cao tinh thần chủ động phòng ngừa, phải lấy phòng ngừa là căn bản, chiến lược với phương châm từ sớm, từ xa, từ cơ sở; chủ động loại bỏ nguyên nhân, điều kiện có thể dẫn đến phát sinh, phát triển các đe dọa an ninh phi truyền thống; đồng thời phải chủ động về cơ chế, nguồn lực, biện pháp để kịp thời ứng phó, xử lý, khắc phục hậu quả, nhanh chóng khôi phục hoạt động bình thường khi xảy ra thảm họa, sự cố. Khi vấn đề an ninh phi truyền thống xảy ra ở giai đoạn đầu thuộc chức năng, nhiệm vụ của bộ, ngành, địa phương nào sẽ do bộ, ngành, địa phương đó chủ trì ứng phó, với sự tham gia chủ động, tích cực của các chủ thể khác; khi đã chuyển hóa thành vấn đề an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lực lượng Công an nhân dân có trách nhiệm chủ trì công tác phòng, chống; các lực lượng khác chủ động tham gia theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định. 4. Nhận thức toàn diện, sâu sắc, thống nhất về cách tiếp cận toàn diện, toàn dân, liên ngành, liên vùng, liên quốc gia trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống; dựa trên nền tảng của một cơ chế tổng thể, bao trùm, thống nhất trong điều hành các hoạt động phòng ngừa, ứng phó, huy động lực lượng, tài chính, khoa học, công nghệ; bảo đảm sự đồng bộ của thể chế và hiệu lực, hiệu quả của chính sách, pháp luật; phù hợp tiềm lực, trình độ của bộ máy nhà nước và năng lực, khả năng của người dân, doanh nghiệp. 5. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực hiện tốt phương châm “ba chủ động” (chủ động phương án; chủ động con người; chủ động phương tiện); “bốn tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; vật tư, phương tiện tại chỗ; hậu cần tại chỗ), kết hợp với sự chi viện, hỗ trợ của Trung ương, phát huy mọi nguồn lực và trách nhiệm của cộng đồng, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước để kiểm soát, ứng phó hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Sử dụng hiệu quả, không lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội trong phòng ngừa, ứng phó. 6. Tăng cường đầu tư cho phát triển bền vững, gắn với phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống; không thu hút đầu tư bằng mọi giá, không đánh đổi sức khỏe con người, môi trường sinh thái lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Tập trung phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao... gắn với nâng cao khả năng chống chịu, phục hồi; chủ động thích ứng với một số đe dọa an ninh phi truyền thống. 7. Nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực chính để nâng cao năng lực phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá để nâng cao năng lực phát hiện, dự báo chính xác, cảnh báo sớm và giảm thiểu tối đa tác động của các đe dọa này. Không ngừng hiện đại hóa các lực lượng tham gia phòng ngừa, ứng phó đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. 8. Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế vừa nhằm thể hiện vai trò, trách nhiệm quốc gia đối với các vấn đề chung của quốc tế, vừa tăng cường tiềm lực của quốc gia trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Chủ động đưa ra ý tưởng, mô hình, đề xuất xây dựng quy tắc chung của khu vực, toàn cầu để thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, ứng phó, đóng góp thiết thực vào việc duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và trên toàn thế giới. 1. Mục tiêu tổng quát Tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Từng bước xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia có khả năng quản trị hiệu quả các đe dọa này, bảo đảm an toàn cho người dân và xã hội; tích cực, chủ động đưa ra ý tưởng, mô hình... để thúc đẩy hợp tác quốc tế và có đóng góp thiết thực, trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong giải quyết các đe dọa an ninh phi truyền thống; góp phần phát triển đất nước bền vững, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 2. Mục tiêu cụ thể - Đến năm 2030: Toàn hệ thống chính trị, toàn dân được tuyên truyền, giáo dục, nhận diện về các đe dọa an ninh phi truyền thống; từ đó nhận thức rõ trách nhiệm và quán triệt tốt phương châm “bốn tại chỗ” trong phòng ngừa, ứng phó. Năm 2026, hoàn thành việc rà soát hệ thống pháp luật liên quan phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Năm 2030, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn trong từng ngành, lĩnh vực làm cơ sở xác định cấp độ, mức độ và cơ chế phòng ngừa, ứng phó. Hoàn thành bộ chỉ số an ninh, an sinh, an toàn quốc gia làm cơ sở xác định cảnh báo và tổ chức hoạt động phòng ngừa, ứng phó. Tập trung nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm. Năm 2030, 100% địa bàn trọng điểm về các đe dọa an ninh phi truyền thống được bố trí hệ thống theo dõi, giám sát và cảnh báo sớm trong các lĩnh vực: địa chất, biến đổi khí hậu, môi trường, nguồn nước, năng lượng, y tế và phòng, chống tội phạm. Hình thành cơ sở dữ liệu liên quan các đe dọa an ninh phi truyền thống trong Trung tâm Dữ liệu quốc gia hướng đến hệ thống dữ liệu liên thông, đầy đủ, đồng bộ cả về chiều dọc (từ trung ương xuống địa phương) và chiều ngang (liên bộ, liên ngành). Các lực lượng tham gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống được kiện toàn tổ chức, có năng lực phòng ngừa, ứng phó và trang bị phương tiện hiện đại tương đương các nước thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực ở một số lĩnh vực như biến đổi khí hậu; môi trường, an ninh mạng; an ninh y tế; phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khủng bố. Hình thành cơ chế điều hành ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống ở các cấp để điều phối các hoạt động ứng phó khi xảy ra các đe dọa ở cấp độ nghiêm trọng. Hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch, kịch bản khung phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống ở các cấp. 100% lực lượng trực tiếp ứng phó được huấn luyện, diễn tập sát thực tế, bảo đảm khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Bước đầu triển khai một số dự án, công trình lưỡng dụng nhằm giảm nhẹ thiệt hại từ các đe dọa an ninh phi truyền thống do thiên nhiên gây ra và bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an ninh y tế. Có nguồn lực dự trữ phù hợp, đáp ứng tốt hoạt động khắc phục, tái thiết, và trở lại trạng thái phát triển bình thường của đối tượng chịu tác động từ các đe dọa an ninh phi truyền thống. Hình thành quỹ phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này ở các cấp theo quy định của pháp luật với sự đóng góp của Nhà nước và xã hội. Sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực trong phòng ngừa, ứng phó. Tích cực, chủ động tham gia hợp tác quốc tế phòng ngừa, ứng phó các đe dọa an ninh phi truyền thống phù hợp với điều kiện, khả năng; nghiên cứu, đề xuất hình thành một diễn đàn quốc tế thường niên do Việt Nam chủ trì, thu hút các học giả, chuyên gia quốc tế, quan chức chính phủ các nước trong khu vực và trên thế giới để thảo luận về hợp tác trong lĩnh vực này. - Tầm nhìn đến năm 2045: Cả hệ thống chính trị và toàn dân được phổ biến, nhận diện rõ các đe dọa an ninh phi truyền thống, có năng lực và thái độ chủ động phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này. Trước năm 2045, có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, phù hợp với luật pháp quốc tế; các chính sách về phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống được xây dựng đầy đủ, khả thi, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, với cơ chế thực thi nghiêm minh, nhất quán, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác phòng ngừa, ứng phó. Năng lực dự báo, cảnh báo sớm các đe dọa an ninh phi truyền thống tương đương các nước phát triển, trên cơ sở đội ngũ chuyên gia và hạ tầng kỹ thuật hiện đại, hệ thống dữ liệu liên thông, đầy đủ, đồng bộ, cập nhật đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, ứng phó trong mọi tình huống. Lực lượng tại chỗ ở cơ sở có khả năng ứng phó hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống; hình thành lực lượng cơ động sẵn sàng tham gia hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này. Các phương án, kế hoạch, kịch bản khung ứng phó và xử lý các tình huống đe dọa an ninh phi truyền thống trên các lĩnh vực được vận hành trơn tru, đồng bộ, nhịp nhàng và hiệu quả. Trong đó, chú trọng ứng dụng, khai thác triệt để thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến trong ứng phó. Có đủ hệ thống cơ sở hạ tầng lưỡng dụng và khả năng thích ứng linh hoạt nhằm hạn chế tác động của thảm họa, sự cố an ninh phi truyền thống. Có nguồn dự trữ đầy đủ đáp ứng mọi yêu cầu của hoạt động khắc phục, tái thiết và phát triển bình thường trở lại sau thảm họa, sự cố xảy ra trong nước và sẵn sàng phục vụ các hoạt động hợp tác quốc tế ứng phó, khắc phục các thảm họa, sự cố. Tích cực trong hợp tác quốc tế, chủ động tham gia xây dựng các khuôn khổ, cơ chế hợp tác quốc tế phòng ngừa, ứng phó các đe dọa an ninh phi truyền thống; thể hiện rõ vai trò là thành viên trách nhiệm, có đóng góp tích cực, hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong phòng ngừa, ứng phó các đe dọa này. a) Rà soát các ban chỉ đạo hiện hành liên quan phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống, tiến tới tái cấu trúc theo hướng một cơ chế chỉ đạo, điều hành, điều phối các hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm tính bao trùm, đồng bộ, tập trung, thống nhất, tinh gọn, hiệu quả; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn trong điều phối các hoạt động phòng ngừa, ứng phó giữa các bộ, ban, ngành, địa phương và giữa từng cấp theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. b) Nghiên cứu kết nối Trung tâm Dữ liệu quốc gia sau khi được hoàn thành với các trung tâm dự báo khí tượng thủy văn, các trạm cảnh báo động đất, trạm cảnh báo sóng thần, trạm quan trắc, cảnh báo môi trường ô nhiễm, độc xạ; các đài, trạm quan sát phòng không nhân dân trên đất liền và biển, đảo; cổng thông tin điện tử các bộ, ngành, địa phương phục vụ chỉ đạo, điều hành của cơ quan điều phối quốc gia phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. c) Xây dựng cơ chế huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và các nguồn lực khác cho hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống, bảo đảm đúng pháp luật, phù hợp với thông lệ, xu hướng quốc tế. a) Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia tiệm cận với các nước phát triển. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự có tính tương thích quốc tế cao làm cơ sở trong hợp tác, đấu tranh phòng, chống tội phạm, hướng tới một khung pháp lý toàn diện, phù hợp thực tiễn phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Chú trọng hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp bối cảnh mới, tập trung các lĩnh vực cơ bản như: tình trạng khẩn cấp; phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia; phòng, chống khủng bố; bảo đảm an ninh mạng, an ninh thông tin, phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; bảo vệ môi trường và ứng phó các thảm họa thiên nhiên, năng lượng, tài chính - tiền tệ, lương thực, y tế, nhất là các tình huống y tế khẩn cấp. b) Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc tổ chức các hoạt động của cơ quan điều hành ở từng cấp, bảo đảm vừa toàn diện, vừa chuyên sâu theo ngành, lĩnh vực, địa bàn. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền huy động và sử dụng nguồn lực phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống cho lực lượng của các bộ, ngành, địa phương được giao chủ trì phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống cụ thể. Xây dựng, hoàn thiện quy định trách nhiệm phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong thực hiện nhiệm vụ chung. Xây dựng quy định về chế độ, chính sách đãi ngộ đặc thù đối với các lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này. c) Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các chính sách xã hội góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống, như: chính sách giải quyết việc làm; chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách tôn giáo, dân tộc; chính sách phòng, chống tội phạm... Ban hành quy định việc thẩm định về bảo đảm yêu cầu an ninh, trật tự đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm quốc gia. d) Tích cực tham gia, ký kết các điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Đồng thời chủ động nội luật hóa các cam kết quốc tế, bảo đảm tính đồng bộ và tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong hợp tác thực thi pháp luật. Chủ động thúc đẩy hình thành các cơ chế đối thoại, trao đổi quốc tế về vấn đề này; chú trọng xây dựng và thúc đẩy các cơ chế hợp tác quốc tế để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và công nghệ trong phòng ngừa, ứng phó. đ) Triển khai các cơ chế mới trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; Nhà nước thống nhất quản lý; Chính phủ đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; các lực lượng, cơ quan chuyên trách đóng vai trò nòng cốt; doanh nghiệp và Nhân dân giữ vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện. Chú trọng củng cố thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân, trên nền tảng thế trận lòng dân vững chắc trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. e) Nghiên cứu xây dựng, ban hành các cơ chế đặc thù, tạo khuôn khổ pháp lý triển khai cơ chế thí điểm, thử nghiệm các mô hình, công nghệ mới phục vụ phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống dựa trên cơ sở thành tựu khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo. g) Phân định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm của tập thể, cá nhân, gắn với xử lý vi phạm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó. Phân cấp, phân quyền gắn với đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; tập trung tháo gỡ các “điểm nghẽn” về cơ chế, chính sách trong huy động nguồn lực phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống; có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dám hành động vì lợi ích chung, thu hút, trọng dụng nhân tài. h) Ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đóng góp về khoa học, công nghệ trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Chú trọng các chính sách ưu tiên phát triển và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực này. Xây dựng cơ chế liên kết các trường đại học, cơ sở nghiên cứu và doanh nghiệp để tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu về các giải pháp công nghệ có tính khả thi và mang lại hiệu quả cao. i) Đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí, ưu đãi trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống từ căn cứ dựa trên tổng số biên chế sang căn cứ vào tính hiệu quả của nhiệm vụ, từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng tăng tính tự chủ, gắn với cơ chế quản lý và giám sát công khai, minh bạch, bảo đảm trách nhiệm giải trình. k) Xây dựng cơ chế thông tin nhanh chóng, chính xác, bao phủ rộng rãi. Kết hợp cả kênh thông tin truyền thông truyền thống, trên không gian mạng, cơ chế người phát ngôn, bảo đảm dễ dàng trao đổi và phản hồi. Công khai, minh bạch về các hoạt động phòng ngừa, ứng phó, bảo đảm thông tin truyền tải thống nhất, chính xác. Chủ động phòng ngừa, ứng phó với khủng hoảng truyền thông. a) Xác định năng lực dự báo chiến lược là nội dung quan trọng, tác động trực tiếp đến kết quả phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn là then chốt bảo đảm cho nhận thức về vấn đề này ngày càng đầy đủ, sâu sắc, dự báo các tình huống sát thực tế hơn, làm cơ sở xây dựng, triển khai các kịch bản khung ứng phó các tình huống cụ thể, tạo thế chủ động trong hoạt động ứng phó. b) Tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về an ninh phi truyền thống. Trong đó, nghiên cứu, dự báo dài hạn cho những vấn đề có tính quy luật và dự báo ngắn hạn, trực tiếp, kịp thời cho từng loại hình, tình huống cụ thể. Các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ và đặc thù ngành, địa phương, tổ chức nghiên cứu, dự báo, cảnh báo chuyên sâu với từng loại hình, tình huống và đánh giá tác động. Đẩy mạnh đầu tư, kết nối các trung tâm quản trị, dự báo tại các bộ, ngành, địa phương tạo thành hệ thống mạng thông tin dự báo, cảnh báo, thông báo, báo động ứng phó các đe dọa này trên toàn quốc. Có chính sách đặc thù hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khuyến khích các sáng kiến mới trong công nghệ dự báo và quản lý rủi ro, hỗ trợ các nhóm nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển giải pháp nhằm nâng cao năng lực dự báo chiến lược. c) Tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào giám sát, dự báo, cảnh báo sớm các đe dọa an ninh phi truyền thống. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp trong Trung tâm Dữ liệu quốc gia bảo đảm thông tin cho nghiên cứu dự báo, cảnh báo sớm các đe dọa an ninh phi truyền thống; tạo lập nền tảng hạ tầng thông tin, dữ liệu dự báo, cảnh báo lĩnh vực an ninh phi truyền thống của quốc gia và cơ chế chia sẻ, cung cấp thông tin kịp thời với các lực lượng tham gia phòng ngừa, ứng phó, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, cải tiến phương tiện, trang bị phù hợp với đặc thù công tác phòng ngừa, ứng phó, nhất là các hệ thống cảnh báo sớm và hệ thống quản lý rủi ro tổng hợp. d) Xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống thông qua hoạt động đào tạo chuyên sâu cho các nhà nghiên cứu, dự báo chiến lược để bảo đảm có khả năng phân tích, dự báo toàn diện về các mối đe dọa này. đ) Rà soát thực trạng tổ chức bộ máy, quy trình quản lý nhà nước trên các lĩnh vực liên quan đến phòng ngừa, ứng phó với đe dọa an ninh phi truyền thống. Sắp xếp bộ máy cơ quan quản lý nhà nước các cấp gắn với việc thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Thiết lập các quy trình quản lý rõ ràng, minh bạch, bảo đảm được giám sát và kiểm soát thường xuyên. Phân công, phân cấp, phân quyền quản lý triệt để, nhưng bảo đảm rõ thẩm quyền, rõ trách nhiệm trong phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa này. e) Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực liên quan phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Chuyển đổi số phải đặt trong mục tiêu xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số dựa trên nền tảng là cơ sở dữ liệu quốc gia. Chú trọng số hóa dữ liệu, tự động hóa quy trình và triển khai hệ thống quản lý thông minh. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ giúp thu thập, phân tích và chia sẻ thông tin hiệu quả. ứng dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT)... để nâng cao khả năng dự báo, giám sát và ứng phó. g) Thiết lập các tiêu chuẩn về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực liên quan phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống. Chú trọng công tác quản trị rủi ro và hướng dẫn cho các tổ chức và doanh nghiệp trong việc đánh giá rủi ro, lập kế hoạch ứng phó với các mối đe dọa. Xây dựng các chương trình, kế hoạch, phương án quản lý khủng hoảng đối với từng vấn đề, bao gồm các bước chuẩn bị, ứng phó và phục hồi. Thiết lập hệ thống chỉ huy và kiểm soát hiệu quả để điều phối các hoạt động ứng phó trong tình huống khẩn cấp. h) Đẩy mạnh hợp tác công - tư, thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân trong hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các đe dọa an ninh |
||||||