PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 4 NĂM 2025 CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 18 tháng 02 năm 2025; Căn cứ Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ; Trên cơ sở thảo luận của các Thành viên Chính phủ, ý kiến các đại biểu dự họp và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2025, tổ chức vào ngày 06 tháng 5 năm 2025. QUYẾT NGHỊ: I. Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2025 Chính phủ thống nhất đánh giá: Trong tháng 4, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến mới, phức tạp, khó lường; xung đột quân sự tại một số khu vực chưa chấm dứt; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, Hoa Kỳ công bố chính sách thuế đối ứng ở mức cao trên diện rộng và liên tiếp thay đổi cùng với phản ứng mạnh mẽ của nhiều nền kinh tế lớn đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, gia tăng nguy cơ suy thoái. Ở trong nước, dưới sự lãnh đạo khoa học, sáng suốt, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm; sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của Quốc hội; sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự đồng thuận, tham gia tích cực của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp; sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyết liệt, chủ động từ sớm, từ xa trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và công việc thường xuyên; ứng phó linh hoạt, kịp thời xử lý những vấn đề đột xuất, phát sinh. Trong bốn tháng đầu năm 2025, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 110 văn bản quy phạm pháp luật, 2.257 văn bản chỉ đạo, điều hành (trong đó có 132 Nghị quyết, 51 Công điện, 13 Chỉ thị). Chủ trì, tổ chức 940 hội nghị, cuộc họp, làm việc và đi công tác địa phương, cơ sở để trực tiếp kiểm tra, đôn đốc triển khai nhiều công trình, dự án kết cấu hạ tầng quan trọng, trọng điểm và giải quyết công việc theo thẩm quyền. Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2025 đạt nhiều kết quả tích cực, tốt hơn tháng trước và cùng kỳ năm trước; tiếp tục tạo đà, tạo lực, tạo khí thế thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong tháng 5 và thời gian tới. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 tăng 0,07% so với tháng trước; bình quân bốn tháng đầu năm 2025 tăng 3,2% so với cùng kỳ. Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định; mặt bằng lãi suất cho vay mới có xu hướng giảm, nhu cầu ngoại tệ trong nước được đáp ứng, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Thu ngân sách nhà nước bốn tháng đầu năm đạt 48% dự toán, tăng 26,3% so với cùng kỳ; chi ngân sách nhà nước tăng 15,2%; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; bảo đảm nhiệm vụ chi phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, thanh toán các khoản nợ đến hạn và chi chế độ, chính sách theo quy định. Nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia được kiểm soát tốt. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa tháng 4 năm 2025 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, lần lượt đạt 21,3%, 19,8%, 22,9%; tính chung bốn tháng, xuất khẩu tăng 13%, xuất siêu đạt 3,8 tỷ đô la Mỹ (USD). Tính đến hết tháng 4, giải ngân vốn đầu tư công đạt 15,56% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước tăng 12,9% so với cùng kỳ, tính chung bốn tháng đạt 18,6% kế hoạch, tăng 17,7% so với cùng kỳ. Cả 3 khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tiếp tục xu hướng phát triển. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4 ước tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,8%; tính chung bốn tháng đầu năm 2025, IIP ước tăng 8,4% so với cùng kỳ, trong đó, 62 địa phương sản xuất công nghiệp tăng khá; cung ứng đủ điện cho sản xuất, kinh doanh và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Khu vực nông nghiệp tăng trưởng tích cực, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu; an ninh lương thực được bảo đảm. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng khá; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 tăng 11,1%, tính chung bốn tháng tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 4 tăng 6,3% so với cùng kỳ; tính chung bốn tháng đạt 7,67 triệu lượt người, tăng 23,8% so với cùng kỳ. Trong bốn tháng đầu năm, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt gần 90 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm 2024; riêng tháng 4, có hơn 24,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 7,8% so với cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký trong bốn tháng đạt 13,8 tỷ USD, tăng 40%, vốn FDI thực hiện đạt trên 6,7 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ. Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá tích cực về công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và tiếp tục dự báo khả quan về tăng trưởng kinh tế của nước ta. Công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng, thực hiện hiệu quả. Trong tháng 4, Chính phủ đã hỗ trợ gần 1,5 nghìn tấn gạo cho người dân dịp giáp hạt; tính chung bốn tháng, Chính phủ đã hỗ trợ khoảng 8,3 nghìn tấn gạo; các chương trình tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ vay vốn cho trên 847 nghìn đối tượng; thực hiện chi trả sớm lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội tháng 5 để tạo điều kiện cho nhân dân, người lao động. Đến nay, cả nước đã hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát với số lượng trên 208 nghìn căn nhà, trong đó khánh thành 109 nghìn căn, khởi công mới trên 99 nghìn căn. Đời sống của nhân dân tiếp tục được nâng lên, tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong tháng không thay đổi và tăng lên so với tháng cùng kỳ năm trước là 96,1%, tăng 1,3%; chỉ số hạnh phúc năm 2025 của Việt Nam tăng 08 bậc, xếp thứ 46 thế giới và thứ 2 ASEAN. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được đẩy mạnh. Trong tháng 4, các cấp, các ngành, các địa phương tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa, trọng thể kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nổi bật là Lễ diễu binh, diễu hành cấp quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh, khẳng định sức mạnh của Nhân dân, khát vọng phát triển đất nước và vai trò của khối đại đoàn kết, tinh thần bất khuất, tự lực, tự cường, bền bỉ, hào hùng của dân tộc Việt Nam, tầm vóc vĩ đại và giá trị lịch sử to lớn của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, mốc son chói lọi nhất của trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chính phủ đã tổ chức Lễ khởi công, khánh thành trực tuyến đồng thời trên cả 03 miền Bắc - Trung - Nam 80 công trình, dự án trọng điểm quốc gia và các công trình lớn. Ngành giáo dục tập trung chuẩn bị, tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2025; tích cực triển khai Kết luận số 91-KL/TW ngày 12 tháng 8 năm 2024 của Bộ Chính trị về thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học; tăng cường quản lý dạy thêm, học thêm. Ngành y tế thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm; đẩy mạnh đầu tư, làm chủ công nghệ và triển khai nhiều kỹ thuật y học tiên tiến; bảo đảm yêu cầu khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân trong dịp nghỉ lễ. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, sắp xếp tổ chức, bộ máy được các cấp, các ngành, các địa phương triển khai quyết liệt, bám sát chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ đã trình cấp thẩm quyền Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp; chuẩn bị kỹ lưỡng, hoàn thành 58/64 tài liệu, báo cáo phục vụ Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, trong đó có 44 dự án luật, nghị quyết - là số lượng văn bản pháp luật lớn nhất tại một kỳ họp. Tập trung triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06), cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Công tác ứng phó với điều chỉnh chính sách kinh tế, thương mại của Hoa Kỳ được triển khai quyết liệt, khẩn trương, hiệu quả; Đoàn đàm phán Chính phủ về Hiệp định song phương về thương mại đối ứng, đầu tư và an ninh kinh tế được Thủ tướng Chính phủ thành lập để xây dựng kịch bản, phương án và tiến hành đàm phán. Công tác đôn đốc, chỉ đạo, tháo gỡ các dự án, công việc tồn đọng đạt kết quả tích cực, tiếp tục thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội. Công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tiếp tục được chú trọng; công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại được tăng cường, góp phần củng cố niềm tin người tiêu dùng và phát triển bền vững thị trường trong nước. Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, nhất là trong kỳ nghỉ lễ 30/4 - 01/5. Công tác đối ngoại, nhất là các hoạt động đối ngoại cấp cao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đối ngoại đa phương tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả thiết thực; tích cực triển khai các cam kết, thỏa thuận quốc tế; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên. Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, nước ta còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro, mục tiêu tăng trưởng năm 2025 và thời gian tới gặp thách thức lớn. Công tác phân tích, dự báo tình hình còn chưa sát, phản ứng chính sách có lúc chưa hiệu quả. Công nghiệp khai khoáng chưa được khai thác hiệu quả cho tăng trưởng; xuất khẩu, thu hút FDI gặp khó khăn; số doanh nghiệp rút khỏi thị trường cao hơn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động; thị trường trong nước chưa được khai thác hiệu quả, sức mua chậm; tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là sữa giả, thuốc giả, thực phẩm giả. Một số dự án đình trệ, chậm tiến độ, có vướng mắc pháp lý cần sớm đưa vào triển khai và hoàn thành theo tiến độ. Việc hoàn thiện thể chế, pháp luật mặc dù đã được chỉ đạo quyết liệt nhưng vẫn còn bất cập; một số quy định, thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn, quy chuẩn còn chồng chéo, phức tạp, chưa hài hòa với thông lệ quốc tế, gây khó khăn trong thực hiện, gia tăng chi phí tuân thủ. Tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm chưa được khắc phục triệt để. Đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo. Vấn đề ô nhiễm không khí, ùn tắc giao thông tại một số thành phố lớn chậm được khắc phục. Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội, tội phạm trên một số địa bàn, tội phạm công nghệ cao, lừa đảo qua mạng, tội phạm ma túy tiềm ẩn yếu tố phức tạp. Qua thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm quý, nhất là: (i) Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, Nghị quyết, kết luận của Trung ương, Quốc hội để cụ thể hóa thành các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm 6 rõ: “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả”; (ii) Theo dõi sát thực tiễn, chủ động nắm bắt tình hình, tăng cường năng lực phân tích, dự báo từ sớm, từ xa để có phản ứng chính sách kịp thời, quyết đoán, đúng thời điểm; kiên quyết không lùi bước trước khó khăn, càng áp lực càng phải kiên định mục tiêu đề ra và tập trung thực hiện với quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, hành động quyết liệt hơn; (iii) Đề cao trách nhiệm cá nhân, bản lĩnh, tính chủ động, quyết tâm, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, hành động của người đứng đầu; phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giải quyết công việc đúng thẩm quyền, đúng chức năng, nhiệm vụ; đồng thời, tăng cường đoàn kết, thống nhất, phối hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn với các cơ quan liên quan; (iv) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi của các cấp, tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc, hướng dẫn, động viên, khen thưởng kịp thời; tập trung tháo gỡ rào cản, điểm nghẽn, kiên quyết cắt giảm thủ tục hành chính, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; (v) Công tác thông tin, truyền thông phải luôn song hành với công tác chỉ đạo, điều hành; lan tỏa động lực tích cực, củng cố niềm tin và đồng thuận xã hội, tạo khí thế mới cho phát triển. II. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thời gian tới Tình hình thế giới dự báo tiếp tục có những biến động lớn, phức tạp và khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt hơn; xung đột quân sự tại một số khu vực vẫn tiếp diễn; căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng ... ở trong nước, khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ và thuận lợi, tạo sức ép lên ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát, tỷ giá, các cân đối lớn và công tác quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt nghiêm Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; đề cao tinh thần trách nhiệm, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao quyết liệt, kịp thời, nhạy bén hơn nữa; xác định khó khăn, thách thức là cơ hội, là động lực để quyết tâm vượt qua; quyết tâm khắc phục những hạn chế, yếu kém, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra của năm 2025; trong đó, chú trọng những nội dung sau đây: a) Các bộ, cơ quan, địa phương tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách và bảo đảm nguồn lực triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả 04 Nghị quyết của Bộ Chính trị gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 5 năm 2025 về phát triển kinh tế tư nhân. b) Các Bộ: Tư pháp, Tài chính căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, khẩn trương hoàn thiện các dự thảo Nghị quyết của Quốc hội và trình tại Kỳ họp thứ 9 để thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách tại Nghị quyết số 66-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị; chuẩn bị chu đáo để tổ chức quán triệt trên toàn quốc đối với 02 Nghị quyết vào ngày 18 tháng 5 năm 2025. c) Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương xây dựng Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, trình Chính phủ trước ngày 10 tháng 5 năm 2025. d) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương hoàn thiện bài quán triệt triển khai Nghị quyết của Thủ tướng Chính phủ; xây dựng Kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 5 năm 2025 của Bộ Chính trị, trình Chính phủ trước ngày 15 tháng 5 năm 2025. đ) Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương hoàn thiện bài quán triệt thực hiện Nghị quyết của Chủ tịch Quốc hội; xây dựng Kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị, trình Chính phủ trong tháng 6 năm 2025. e) Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì đôn đốc các cơ quan, địa phương tập trung đẩy nhanh tiến độ các nhiệm vụ trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 193/2025/QH15 ngày 19 tháng 02 năm 2025 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. a) Các bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao: (1) Theo dõi sát diễn biến tình hình thế giới, khu vực, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết hoàn thành các chỉ tiêu của ngành, lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý được Chính phủ giao tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2025, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên. (2) Chuẩn bị phương án, lộ trình điều chỉnh giá phù hợp một số mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá trên cơ sở đánh giá tổng thể, kỹ lưỡng tác động của việc điều chỉnh giá đến lạm phát, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống nhân dân để bảo đảm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. b) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương: (1) Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách nhà nước; mở rộng cơ sở thu, quản lý chặt chẽ các nguồn thu, nhất là thu từ thương mại điện tử, dịch vụ ăn uống, hoàn thành triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền trong quý II năm 2025; phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước năm 2025 trên 15%. (2) Trình Thủ tướng Chính phủ việc tổ chức Hội nghị trong tháng 6 năm 2025 về thu hút và thúc đẩy đầu tư các chương trình, dự án nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên trong năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo. c) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương: (1) Điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu đề ra, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng, phấn đấu tăng trưởng tín dụng năm 2025 ít nhất đạt khoảng 16%. (2) Tăng cường quản lý thị trường vàng, thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định; khẩn trương trình Chính phủ trong quý II năm 2025 Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. d) Các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực quản trị và chất lượng nguồn nhân lực; tập trung nguồn lực vào lĩnh vực kinh doanh chính, đầu tư các dự án lớn, trọng tâm, trọng điểm, tác động lan tỏa, tạo động lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, kém hiệu quả. a) Các bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao: (1) Tập trung quyết liệt thực hiện tinh gọn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, bảo đảm đúng tiến độ theo chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (trong tháng 5 và tháng 6 năm 2025). Tổ chức lấy ý kiến nhân dân, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, không để phát sinh tình hình phức tạp. Khẩn trương xây dựng kế hoạch lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp và hoàn thành báo cáo tổng hợp của bộ, ngành, địa phương mình trước ngày 30 tháng 5 năm 2025. (2) Ưu tiên thời gian, nguồn lực, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội, chuẩn bị tốt nội dung tiếp thu, giải trình việc sửa đổi Hiến pháp, các dự án luật, nghị quyết, báo cáo, bảo đảm chất lượng tốt nhất để có thể xem xét, thông qua tại một kỳ họp. Khẩn trương ban hành hoặc trình cấp thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành sau khi các luật, pháp lệnh, nghị quyết được Quốc hội thông qua, không để khoảng trống pháp lý. (3) Chủ động rà soát, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ với thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp năm 2013 sửa đổi (dự kiến ngày 01 tháng 7 năm 2025), bảo đảm chính quyền địa phương 02 cấp đi vào hoạt động thông suốt, liên tục; hoàn thành trước ngày 30 tháng 6 năm 2025. (4) Các bộ, cơ quan ngang bộ khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 608/QĐ-TTg ngày 15 tháng 3 năm 2025 và Quyết định số 758/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2025, chủ động ban hành theo thẩm quyền hoặc tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định phân định nhiệm vụ, quyền hạn, thủ tục hành chính gắn với phân cấp, phân quyền triệt để cho chính quyền địa phương khi triển khai xây dựng chính quyền địa phương 02 cấp; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân công quản lý có liên quan đến việc kết thúc hoạt động của chính quyền địa phương cấp huyện và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp; hoàn thành trước ngày 30 tháng 5 năm 2025. Chủ động giải quyết các khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của địa phương đối với Đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2025. (5) Thực hiện hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp cắt giảm đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025 và 2026 tại Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2025 của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 56/CĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2025 về tập trung thực hiện cắt giảm đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 66/NQ-CP, bảo đảm hoàn thành đúng tiến độ, mục tiêu đề ra. Tích cực hưởng ứng Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số”. (6) Tập trung triển khai việc phân định thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính của chính quyền cấp huyện, công bố, công khai và thực hiện thủ tục hành chính sau khi phân định thẩm quyền theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 500/TTg-KSTT ngày 04 tháng 5 năm 2025. Rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa 100% thủ tục hành chính nội bộ phù hợp với quy định mới của pháp luật về phân cấp, phân quyền, ủy quyền và việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp. (7) Nâng cấp, phát triển Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu số hóa, thực hiện thủ tục hành chính không phụ thuộc địa giới hành chính và mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tích hợp, cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia trong tháng 6 năm 2025; thực hiện không duy trì Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh theo Thông báo số 14-TB/TGV ngày 21 tháng 4 năm 2025 của Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phối hợp với Văn phòng Chính phủ triển khai Cổng Dịch vụ công quốc gia là điểm “một cửa số” tập trung duy nhất của quốc gia. (8) Rà soát, công bố danh mục thủ tục hành chính đủ điều kiện thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình; số hóa, tái cấu trúc quy trình, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên cơ sở tái sử dụng thông tin, dữ liệu, giấy tờ đã số hóa, tích hợp trên VNeID, cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, kho dữ liệu của cá nhân, tổ chức. (9) Giải quyết 2.212 dự án khó khăn, vướng mắc, tồn đọng kéo dài với tổng kinh phí gần 5,9 triệu tỷ đồng và trên 347 nghìn ha đất. b) Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương xây dựng 02 dự thảo Nghị quyết về việc sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh và sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã, trình Chính phủ trước ngày 10 tháng 5 năm 2025 để trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. a) Các bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao: (1) Đề cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, phấn đấu đạt tỷ lệ giải ngân 100% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao; chịu trách nhiệm toàn diện trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về kết quả phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 của bộ, cơ quan, địa phương mình, không để xảy ra thất thoát, lãng phí. (2) Tập trung xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026 - 2030; bố trí vốn tập trung, trọng tâm, trọng điểm, kiên quyết không dàn trải, manh mún, bảo đảm tổng số dự án nguồn ngân sách trung ương giai đoạn 2026 - 2030 không quá 3.000 dự án; tích cực triển khai công tác chuẩn bị đầu tư các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, liên tỉnh, liên vùng, liên quốc gia và liên quốc tế. (3) Quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, kiên quyết phòng, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tiếp tục rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản về quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (nếu cần thiết), đẩy mạnh phân cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của địa phương; khẩn trương hoàn thiện các thủ tục phân bổ, giao kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia cho cơ quan, đơn vị trực thuộc; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; phấn đấu hoàn thành 100% mục tiêu, chỉ tiêu Quốc hội giao và giải ngân 100% kế hoạch vốn được giao. (4) Rà soát, tổng hợp, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực |
||||